VỀ QUAN HỆ MỸ - VIỆT NAM - TRUNG QUỐC 10/2018
Phân tích địa chính trị của Martin Berger, nhà báo độc quyền cho tạp chí New Eastern Outlook, Ngô Mạnh Hùng biên dịch.
Hơn nửa thế kỷ trước, ở giai đoạn đỉnh điểm của chiến tranh Việt Nam, các cơ quan tình báo Mỹ đã yêu cầu chấm dứt phong trào ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Điều này dẫn đến cái gọi là chương trình Phoenix (Chiến dịch Phượng Hoàng) được đưa ra, theo các sử gia, nó cho phép CIA và một số cơ quan quân sự xác định được vị trí và giết chết một cách man rợ hơn 80 nghìn người. Đó có thể là lần đầu tiên các cơ quan tình báo Mỹ được trao quyền tự do trong công việc của họ, dẫn đến việc thực thi hàng loạt các vụ giết người cũng như việc áp dụng các kỹ thuật tra tấn tàn bạo trở nên hung hăng hơn. Do đó, rất lâu trước khi thế giới biết về việc áp dụng các hình thức tra tấn tại nhà tù của Mỹ ở Abu Ghraib, các cơ quan tình báo Mỹ đã bận rộn với việc nghiên cứu áp dụng những kỹ năng chống du kích đặc biệt, đặc biệt là ở Việt Nam, đất nước đã mất hơn một triệu người lính để đánh thắng cuộc xâm lược vô vọng của Mỹ.
Nếu nhận được nhiều nhượng bộ từ Bắc Kinh, thì tốc độ hợp tác của Hà Nội với Washington sẽ chậm lại...
Đối với Washington, cuộc xung đột quân sự này đã để những hậu quả tai hại lâu dài vì đây là thất bại chính thức đầu tiên của Hoa Kỳ trên sân khấu quốc tế trong suốt lịch sử.
Tuy nhiên, người Mỹ rất yêu thích câu thần chú của họ được Henry Kissinger đưa ra: “Nước Mỹ không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích là vĩnh viễn”. Khái niệm này được minh họa trong nỗ lực của Washington để khôi phục quan hệ ngoại giao với Hà Nội và cố gắng kết bạn với kẻ thù cũ của mình, và chính điều đó đã chỉ ra rằng nó đã thất bại nhục nhã trong quá khứ.
Tuy nhiên, hành vi này đã không làm cho Washington thực sự nhận thức được sự tàn sát vô nhân đạo mà nó đem đến cho người Việt Nam. Nhưng, cảnh quan địa chính trị đang thay đổi nhanh chóng hiện nay đã đẩy Việt Nam và Trung Quốc trở nên căng thẳng vì tranh chấp ở Biển Đông. Đến lượt mình, Hoa Kỳ ngày càng cảm thấy thất vọng với việc Bắc Kinh đã thành công trong việc đẩy được nó ra khỏi khu vực từng bị chi phối bởi Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong nhiều thập kỷ. Do đó, mọi thứ xảy ra ở Đông Nam Á những ngày này cần được nhận thức đúng đắn qua lăng kính của cuộc đối đầu ngày càng tăng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chính xác đó là lý do tại sao Washington quyết định nỗ lực tái hợp với Việt Nam để sử dụng đất nước này như một đối trọng với lợi ích của Bắc Kinh trong khu vực.
Sự phục hồi chính thức quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam diễn ra vào giữa những năm 90. Đáng chú ý là John McCain, người đã chiến đấu tại Việt Nam từ 1967 đến 1973, đã đóng một vai trò tích cực trong việc sửa chữa các mối quan hệ tan vỡ. Điều này có nghĩa rằng ngay cả những người ủng hộ chiến tranh ở Mỹ cũng coi trọng lợi ích hơn bất cứ điều gì khác, cần nhớ rằng McCain đã bị giam giữ ở Bắc Việt trong một thời gian dài sau khi máy bay của anh ta bị bắn hạ tại Hà Nội, vẫn sẵn sàng làm những gì Kissinger đã nói.
Những nỗ lực của Mỹ không chỉ dừng lại ở đó, mà còn hơn, khi Hà Nội được Bill Clinton viếng thăm vào năm 2000, người trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Việt Nam từ năm 1969. Theo sau là Barack Obama và cả Donald Trump.
|
|
|